Sáng kiến kinh nghiệm Linh hoạt ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin để giảng dạy hiệu quả môn Ngữ Văn ở trường THCS Cao Bá Quát
2.3.2. Thiết kế đồ dùng bằng sơ đồ và bài giảng điện tử.
2.3.2.1. Các phần mềm thiết kế sơ đồ, bài giảng điện tử thường được sử dụng trong dạy học Ngữ văn.
Phần mềm CNTT được giáo viên Ngữ văn sử dụng phổ biến nhất hiện nay là vẽ tạo sơ đồ bằng Shapes, phần mềm vẽ sơ đồ tư duy iMindMap, phần mềm Powerpoint. Đây là phần mềm đơn giản, dễ thiết kế dễ trình chiếu và có tác dụng tích cực, rõ nét nhất. Tùy từng bài, từng phần từng đặc trưng phân môn kiến thức mà ta vận dụng linh hoạt phù hợp để đạt hiệu quả nhất cho từng phân môn cụ thể. Như những tiết tổng kết với dung lượng kiến thức lớn tổng hợp ta nên vẽ tạo sơ đồ bằng Shapes vì sơ đồ này đơn giản nhưng lại rất rõ ràng không rườm rà. Khi dạy những bài có kiến thức lớn nhưng đòi hỏi chi tiết như Văn bản thì nên sử dụng sử dụng phần mềm vẽ sơ đồ tư duy iMindMap vì sơ đồ tư duy có rất nhiều nhánh để có thể đưa chi tiết lượng kiến thức vào trong sơ đồ một cách cụ thể chi tiết dễ hiểu nếu kết hợp với Powerpoint thì có thể tạo hiệu ứng cho học sinh tự điền kết quả thông qua các câu hỏi gợi mở của giáo viên nên vừa sinh động, tạo hứng thú cho học sinh và đạt kết quả tiếp thu rất nhanh.
Còn những bài có nhiều hình ảnh, tư liệu, hiệu ứng khoa học trong văn bản nhật dụng thì nên thiết kế bài giảng bằng phần mềm Powerpoint. Khi giới thiệu, trình bày và khái quát nội dung bài học, mỗi slide được coi là một bộ phận cũng là một hệ thống con trong hệ thống các nội dung mà bài học cần thể hiện. Ở mỗi slide, giáo viên có thể chọn hiệu ứng, đưa các tư liệu (phim, ảnh, nhạc, bài đọc tác phẩm …) làm cho bài giảng sinh động lôi cuốn hơn.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Linh hoạt ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin để giảng dạy hiệu quả môn Ngữ Văn ở trường THCS Cao Bá Quát

MỤC LỤC TT Nội dungcác mục Trang 1 1. Mở đầu 2 2 1.1. Lý do chọn đề tài 2 3 1.2. Mục đích nghiên cứu. 3 4 1.3. Đối tượng nghiên cứu. 4 5 1.4. Phương pháp nghiên cứu 4 6 1.5. Giới hạn nghiên cứu 4 7 2. Nội dung. 5 8 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề 5 9 2.2. Thực trạng vấn đề. 7 10 2.3. Các biện pháp giải quyết vấn đề 11 11 2.4. Hiệu quả đạt được. 25 12 3. Kết luận và kiến nghị 26 13 3.1. Kết luận 26 14 2. Một vài kiến nghị 27 15 TÀI LIỆU THAM KHẢO 30 1. MỞ ĐẦU. 1.1. Lý do chọn đề tài. Trong phòng thiết bị ở trường THCS có rất nhiều đồ dùng dạy học của nhiều bộ môn khác nhau nhưng chỉ có môn Ngữ Văn là hầu như không có hoặc có thì cũng chỉ là những đồ dùng do giáo viên tự làm nên rất nghèo nàn, sơ sài. Vì vậy để truyền tải kiến thức môn Ngữ Văn một cách sinh động, tạo được hứng thú cho các em yêu thích, học tốt môn học này quả là một vấn đề nan giải. Môn Ngữ văn lại là một môn học có vai trò hết sức quan trọng trong việc giáo dục tư tưởng, tình cảm đạo đức cho học sinh. Thông qua bộ môn này cùng với sự hướng dẫn của người thầy, các em sẽ lĩnh hội được nhiều cái hay, cái đẹp trong lời nói, cách dùng từ, đối nhân xử thế trong đời sống qua mỗi bài học. Muốn làm được điều ấy thì người giáo viên văn phải lựa chọn cho mình những đồ dùng, ứng dụng sao cho có hiệu quả và sinh động nhất. Theo quan điểm đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay, học sinh là trung tâm, là đối tượng chủ yếu của các hoạt động dạy và học, giáo viên là người thiết kế, hướng dẫn, gợi mở để các em tự trao đổi, thảo luận để đưa ra những ý kiến trong giờ học, tự bày tỏ các cách hiểu, cách cảm về tác phẩm nên trong giờ học việc ghi bảng không còn là việc chủ yếu. Giáo viên chỉ còn việc lắng nghe, chốt lại những kiến thức quan trọng theo chuẩn kiến thức cần đạt. Trong xu thế dạy học ngày nay, việc dạy học ngữ văn theo phương pháp hiện đại, người ta nghĩ ngay đến việc ứng dụng những phần mềm công nghệ dạy học. Bước sang Thế kỉ XXI, công nghệ thông tin có sự bùng nổ mạnh mẽ và nó đã len lỏi vào mọi lĩnh vực của đời sống. Đặc biệt, trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học ở nhà trường phổ thông việc đẩy mạnh ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin góp phần rất lớn trong việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa quá trình dạy học. Có thể nói, việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy bộ môn Ngữ văn nói riêng và dạy học nói chung đã thu được nhiều kết quả khả quan, tạo nên sự chuyển biến trong dạy học, nhất là mặt phương pháp. Một trong những yếu tố quan trọng để đổi mới phương pháp giảng dạy là đổi mới phương tiện dạy học, trong đó ứng đụng phần mềm công nghệ thông tin là một trong những giải pháp tối ưu nhất. Việc đổi mới phương pháp dạy văn bằng cách ứng dụng công nghệ phần mềm vào giảng dạy là một trong những cách làm hiệu quả mà tôi đã và đang thực hiện tại trường THCS Cao Bá Quát trong những năm học vừa qua là thiết kế bài giảng một cách linh hoạt tùy từng nội dung phân môn từng bài học để ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin để tạo đồ dùng làm phương tiện dạy học. Việc tích hợp, linh động sử dụng các phần mềm ứng dụng một cách hợp lý sẽ đem lại hiệu quả cao hơn, sinh động hơn, học sinh hứng thú hơn. Một trong những phần mềm được sử dụng để tạo đồ dùng như : “vẽ tạo Sơ đồ tổng quát bằng Shapes, phần mềm vẽ sơ đồ tư duy iMindMap, phần mềm Powerpoint bài giảng điện tử bằng phần mềm Powerpoint, tích hợp giảng dạy ngữ văn với âm nhạc, phim ảnh, băng hình tư liệu ...” Hay hơn nữa những phần mềm này có thể linh hoạt kết hợp bổ sung hỗ trợ cho nhau trong quá trình thiết kế bài giảng với lưu lượng nội dung kiến thức khác nhau trong từng phân môn. Với những suy nghĩ như trên , tôi đã mạnh dạn đưa sáng kiến“ Linh hoạt ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin để giảng dạy hiệu quả môn Ngữ Văn ở trường THCS Cao Bá Quát” Tôi rất hy vọng sáng kiến này có thể góp phần nào đó giúp các anh chị đồng nghiệp có thể vận dụng có hiệu quả hơn trong giảng dạy môn Ngữ Văn ở địa phương nói chung và trường THCS Cao Bá Quát nói riêng. 1. 2. Mục đích nghiên cứu Trải qua quá trình học hỏi các anh chị đồng nghiệp, có thâm niên trong giảng dạy và các đồng chí giáo viên dạy tin học bản thân cũng luôn đặt ra mục tiêu là: Phải làm thế nào để bài giảng Ngữ Văn có sự đổi mới sinh động có hồn có hình ảnh minh họa có sơ đồ có âm thanh của tự nhiên Do đó, với vai trò là một giáo viên có thời gian nhiều năm giảng dạy môn Ngữ Văn ở trường THCS, trải qua quá trình học hỏi, nghiên cứu, tôi đã và đang vận dụng những sáng kiến mà bản thân đã đúc kết được trong những năm học qua. Mục đích của đề tài mà tôi chọn là giúp chúng ta có được một luồng gió mới thổi vào bài giảng môn Ngữ Văn để sinh động và hiệu quả tốt hơn . 1. 3. Đối tượng nghiên cứu - Là học sinh Trường THCS Cao Bá Quát năm học 2017-2018 và 2018-2019. 1. 4. Phương pháp nghiên cứu. Dựa trên các phương pháp nghiên cứu đề tài, cụ thể là: - Phương pháp quan sát sư phạm. - Phương pháp thu thập thông tin phần mềm. Dùng biện pháp thu thập thông tin phần mềm có uy tín. - Phương pháp phân tích, phân loại phân tích sáng kiến của anh chị đồng nghiệp có nhiều sáng kiến trong nghề qua đó học hỏi tiếp thu những cái hay đã đạt được thành tựu. - Phương pháp khảo sát. Khảo sát nhận thức của các em học sinh thông qua các tiết dạy có ứng dụng phần mềm và không sử dụng. -Thông qua phương pháp trải nghiệm: Thông qua thực tế tình hình lớp nhằm tìm ra những cái tốt và cái hạn chế để kịp thời động viên và uốn nắn các em học tập. 1. 5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu - Do thời gian có hạn nên không thể nghiên cứu hết tất cả các lớp học nên tôi chỉ giới hạn ở hai lớp trong hai năm học. - Học sinh lớp 6A2, 6a3 năm học 2017- 2018 và học sinh lớp 7a2, 7a3 Trường Trung học cơ sở Cao Bá Quát, năm học 2018-2019. 2. NỘI DUNG 2.1. Cơ sở lí luận của vấn đề. Trong mấy năm trở lại đây cùng với sự phát triển của công nghệ 3.0 rồi lại 4.0 hết sức mạnh mẽ. Mọi hoạt động trong đời sống xã hội cũng nhờ đó mà có những thành tựu rực rỡ của công nghệ. Không thể phủ nhận công nghệ đã góp phần quan trọng cho việc tạo ra những hiệu quả mới cho quá trình hình thành nền kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Với sức ảnh hưởng và hiệu quả đem lại Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm chỉ đạo các ngành, các cấp đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nói chung và nghành GD – ĐT nói riêng, Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành văn bản số 4116/BGDĐT, ngày 08/9/2017 về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ công nghệ thông tin (CNTT) năm học 2017-2018 đối với các Sở Giáo dục và Đào tạo (GDĐT). Qua đó, trong năm học 2017-2018, các Sở GD-ĐT cần tập trung chỉ đạo triển khai: 3 nhóm nhiệm vụ trọng tâm: Một là Triển khai có hiệu quả Đề án tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 (được phê duyệt theo Quyết định số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ). Hai là Tập trung xây dựng hệ thống thông tin kết nối liên thông giữa Bộ với các Sở, Phòng giáo dục và đào tạo, các cơ sở giáo dục; xây dựng và đưa vào sử dụng thống nhất toàn ngành các cơ sở dữ liệu về giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông; triển khai hệ thống phần mềm quản lý trong các trường học; triển khai hệ thống hội nghị truyền hình, tập huấn qua mạng phục vụ toàn ngành; tăng cường áp dụng phương thức tuyển sinh đầu cấp học qua mạng, cung cấp dịch vụ công trực tuyến. Ba là Tăng cường sử dụng sổ điện tử trong nhà trường; tập trung xây dựng và khai thác sử dụng có hiệu quả kho bài giảng e-learning, kho học liệu số của ngành phục vụ nhu cầu tự học của người học và đổi mới, sáng tạo trong hoạt động dạy, học; Xây dựng mô hình ứng dụng CNTT trong công tác điều hành quản lý, dạy và học từ Sở GDĐT đến các Phòng Giáo dục và Đào tạo, các cơ sở giáo dục, ứng dụng giải pháp trường học điện tử, lớp học điện tử (giải pháp giáo dục thông minh) ở những nơi có điều kiện nhằm nâng cao chất lượng dạy học. Và một số nhiệm vụ cụ thể: Một là ứng dụng CNTT trong các hoạt động điều hành và quản lý giáo dục Hai là ứng dụng CNTT đổi mới nội dung, phương pháp dạy, học và kiểm tra đánh giá Ba là Triển khai hạ tầng và thiết bị CNTT Bốn là bồi dưỡng kỹ năng ứng dụng CNTT cho giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục Năm là khai thác, sử dụng phần mềm tự do nguồn mở Hiện nay, ngành giáo dục đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lí và đổi mới phương pháp dạy học bởi chính công nghệ thông tin đã mở ra những triển vọng to lớn trong việc đổi mới các phương pháp và hình thức dạy học theo cách tiếp cận kiến tạo, phương pháp dạy học theo dự án, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề càng có điều kiện để ứng dụng rộng rãi. Các hình thức dạy học như dạy học đồng loạt, dạy học theo nhóm, dạy học cá nhân cũng có đổi mới trong môi trường công nghệ thông tin và truyền thông. Nếu trước kia người ta nhấn mạnh tới phương pháp dạy học sao cho học sinh dễ hiểu, nhớ lâu thì nay phải đặt trọng tâm là hình thành và phát triển cho học sinh các phương pháp học chủ động. Nếu trước kia người ta thường quan tâm nhiều đến khả năng ghi nhớ kiến thức và thực hành kĩ năng vận dụng thì nay chú trọng đặc biệt đến phát triển năng lực sáng tạo của học sinh. Sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ phần mềm nói chung và phần mềm hỗ trợ giáo dục nói riêng đã giúp chúng ta có trong tay nhiều ứng dụng hỗ trợ cho quá trình dạy học nói chung và phần mềm dạy học nói riêng. Nhờ có sử dụng các phần mềm dạy học mà học sinh trung bình, thậm chí học sinh học yếu cũng có thể hoạt động tốt trong môi trường học tập. Nhờ có máy tính mà việc thiết kế giáo án và giảng dạy trên máy vi tính trở nên sinh động hơn, thu hút được sự chú ý và tạo được sự hứng thú ở học sinh. Thông qua những đồ dùng, ứng dụng được thết kế trên phần mềm máy vi tính nên giáo viên cũng có nhiều thời gian đặt các câu hỏi gợi mở với những sơ đồ được thiết kế đẹp mắt tạo điều kiện cho học sinh hoạt động và nắm được nhiều cách học và sáng tạo nhiều hơn trong giờ học. Những khả năng mới mẻ và ưu việt này của các ứng dụng đã nhanh chóng làm thay đổi cách sống, cách làm việc và tư duy của học sinh. Mục tiêu cuối cùng của việc ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học là nâng cao một bước cơ bản chất lượng học tập của học sinh, tạo ra môi trường giáo dục mang tính tương tác cao, học sinh được khuyến khích và tạo điều kiện để chủ động tìm kiếm tri thức, sắp xếp hợp lí quá trình tự học, tự rèn luyện của bản thân. Bên cạnh đó, ứng dụng phần mềm công nghệ vào giảng dạy môn Ngữ văn bằng việc vận dụng các phần mềm Powerpoint để thiết kế giáo án và đồ dùng tử là hình thức ứng dụng phần mềm công nghệ dễ tiếp cận, khả thi nhất mang lại hiệu quả không nhỏ. Tích hợp phần mềm công nghệ sẽ làm cho chương trình đào tạo trở nên hấp dẫn hơn, gần hơn với yêu cầu dạy - học ở trường phổ thông, đáp ứng được yêu cầu đổi mới của ngành Giáo dục. Nó không chỉ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục mà còn giúp học sinh nắm chắc kiến thức hơn vận dụng sáng tạo hơn trong từng kiểu bài cụ thể thông qua từng dạng phần mềm tạo ra các đồ dùng có ứng dụng khác nhau. 2. 2. Thực trạng của vấn đề. 2.2.1. Khó khăn * Chủ quan - Về phía thầy giáo : Với suy nghĩ một chiều về tính hiệu quả không cao trong dạy – học ngữ văn nhiều giáo viên ngại ứng dụng công nghệ phần mềm trong dạy học hoặc chỉ sử dụng bất đắc dĩ trong các tiết thao giảng, thực hiện chuyên đề. Hầu hết giáo viên không chú trọng vào vấn đề nên vận dụng phần mềm nào, sử dụng như thế nào và đến mức độ nào trong quá trình đổi mới phương pháp dạy - học. Không ít giáo viên đã lạm dụng các phần mềm powerpoint trong giờ văn tạo cho học sinh sự phân tán các giác quan giữa nghe, nhìn, quan sát các con chữ, theo dõi các hiệu ứng. Vì vậy, họ không những không chuyển tải trọn vẹn những kiến thức quan trọng mà còn tạo ra sự xơ hóa, khô hóa, vô cảm hóa các tình cảm, cảm xúc tự nhiên, làm hạn chế chất văn, chất thơ trong từng bài dạy. Mặt khác, hiện nay, không phải trường nào cũng có phương tiện đèn chiếu và bản thân giáo viên trình độ sử dụng vi tính chưa phải là tốt và quan trọng hơn việc thiết kế một đồ dùng thông qua phần mềm hay soạn một giáo án điện tử khá tốn thời gian nên phong trào vận dụng phần mềm trong giảng dạy hoặc bằng giáo án điện tử chưa phải làphổ biến nếu không nói là hạn hẹp. Một số thầy cô giáo chưa thành thạo vi tính, tiếp cận với phần mềm hay sử dụng phần mềm để thiết kế đồ dung hay giáo án điện tử còn là vấn đề mới mẻ hoặc chưa thể tiếp xúc được. - Về phía học sinh : Tình trạng học vẹt, học thụ động, học đối phó với kiểm tra thi cử đang là hiện tượng phổ biến nên việc tìm kiếm thông tin trên mạng là hi hữu hoăc vào mạng chie để lướt facebook, zalo hoặc chơi game một cách vô bổ. Học sinh rất sợ hoặc ngại học văn mà thường có xu hướng chạy theo các môn học tự nhiên với suy nghĩ sau này dễ tìm việc làm thực dụng hơn. Ở lớp, các em có thói quen nghe giảng, ghi bài tất cả chỉ trông chờ vào những kiến thức thầy truyền thụ hoặc ghi trên bảng một cách máy móc, ít hoạt động hoặc nếu có chủ yếu dựa vào sách giải. Đa số học sinh học văn cầm chừng để kiểm tra thi cử, chưa có hứng thú thật sự với văn học. * Khách quan Bộ môn Ngữ văn là môn học về ngôn từ, rất ít sử dụng đồ dùng dạy học và phương tiện dạy học nên việc đầu tư đồ dùng dạy học cho môn này là rất ít. Tiếp đến, tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều tiện ích cho việc dạy học nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ trợ hoàn toàn cho việc dạy học. Nó chỉ thực sự hiệu quả đối với một số bài giảng, một số tiết học chứ không thể là toàn bộ chương trình nhất là đối với bộ môn Ngữ văn do nhiều nguyên nhân. Với những bài học có nội dung ngắn, không nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo phương pháp truyền thống sẽ thuận lợi hơn cho học sinh, giáo viên sẽ ghi tất cả nội dung bài học trên một mặt bảng và như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học từ đầu đến cuối. Những mạch kiến thức vận dụng đòi hỏi giáo viên phải kết hợp phấn trắng phấn màu bảng đen sơ đồ và các phương pháp thuyết giảng, bình giảng, phân tích thì mới tạo được hứng thú cho học sinh. Bên cạnh đó, kiến thức, kĩ năng về máy tính của giáo viên còn hạn chế nên dù có đam mê nhưng vẫn gặp nhiều khó khăn, lúng túng dẫn đến né tránh. Mặt khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một lối mòn khó thay đổi, sự uy quyền, áp đặt vẫn chưa thể xóa bỏ trong ngày một ngày hai. Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy theo nhóm, dạy phương pháp tư duy sáng tạo cho học sinh, cũng như dạy học sinh cách biết, cách làm, cách chung sống và cách tự khẳng định mình vẫn còn quá mới mẻ đối với giáo viên và đòi hỏi giáo viên phải kết hợp hài hòa các phương pháp dạy học đồng thời phát huy ưu điểm của phương pháp dạy học này, khắc phục những hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống. Điều đó làm cho công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình dạy học vẫn chưa thể phát huy tính tích cực và hiệu quả của nó. 2.2.2. Những thuận lợi Bên cạnh
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_linh_hoat_ung_dung_phan_mem_cong_nghe.doc