Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm Lớp 4
Là người giáo viên dạy Tiểu học, không những truyền đạt cho học sinh về nội dung kiến thức các môn học, mà còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn mà còn phải biết tổ chức, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục, đó là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của người giáo viên. Muốn giáo dục cho một đứa trẻ được hoàn thiện quả không đơn giản, người giáo viên phải bao quát tất cả các kĩ năng, kiến thức, nội dung lẫn phương pháp khi đứng trên bục giảng.
Để nhận thấy được tầm quan trọng đó, bản thân tôi luôn cần phải trang bị cho mình một số biện pháp, phương pháp và linh hoạt xử lí mọi tình huống diễn ra trong quá trình giảng dạy. Tôi đã 13 năm làm công tác chủ nhiệm và đặc biệt là 11 năm được chủ nhiệm lớp 4, tôi đúc rút cho mình một số biện pháp về làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4. Năm nay tôi mạnh dạn viết Sáng kiến kinh nghiệm, với đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” giới thiệu cùng với bạn bè đồng nghiệp gần, xa.
Góp một phần nhỏ vào công tác chủ nhiệm học sinh Tiểu học nói chung và chủ nhiệm lớp 4 nói riêng, nhằm đưa ra một số biện pháp tốt nhất để giáo dục học sinh nói chung và mỗi học sinh mình chủ nhiệm nói riêng một cách hoàn thiện nhất. Rất mong được sự quan tâm, giúp đỡ, góp ý chân thành từ quý cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm Lớp 4

MỘT SỐ BIỆN PHÁP LÀM TỐT CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỜI GIỚI THIỆU Là người giáo viên dạy Tiểu học, không những truyền đạt cho học sinh về nội dung kiến thức các môn học, mà còn phải làm tốt công tác chủ nhiệm lớp. Vì vậy đòi hỏi người giáo viên không chỉ có trình độ chuyên môn mà còn phải biết tổ chức, quản lý học sinh trong các hoạt động giáo dục, đó là nhiệm vụ vô cùng quan trọng của người giáo viên. Muốn giáo dục cho một đứa trẻ được hoàn thiện quả không đơn giản, người giáo viên phải bao quát tất cả các kĩ năng, kiến thức, nội dung lẫn phương pháp khi đứng trên bục giảng. Để nhận thấy được tầm quan trọng đó, bản thân tôi luôn cần phải trang bị cho mình một số biện pháp, phương pháp và linh hoạt xử lí mọi tình huống diễn ra trong quá trình giảng dạy. Tôi đã 13 năm làm công tác chủ nhiệm và đặc biệt là 11 năm được chủ nhiệm lớp 4, tôi đúc rút cho mình một số biện pháp về làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4. Năm nay tôi mạnh dạn viết Sáng kiến kinh nghiệm, với đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” giới thiệu cùng với bạn bè đồng nghiệp gần, xa. Góp một phần nhỏ vào công tác chủ nhiệm học sinh Tiểu học nói chung và chủ nhiệm lớp 4 nói riêng, nhằm đưa ra một số biện pháp tốt nhất để giáo dục học sinh nói chung và mỗi học sinh mình chủ nhiệm nói riêng một cách hoàn thiện nhất. Rất mong được sự quan tâm, giúp đỡ, góp ý chân thành từ quý cấp lãnh đạo và bạn bè đồng nghiệp. Tôi xin chân thành cảm ơn! A – PHẦN MỞ ĐẦU I – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Đất nước ta đang trong thời kì phát triển và hội nhập với các nước trên thế giới, nhất là phát triển kinh tế trong thời đại bùng nổ công nghệ thông tin, thì ngành giáo dục là ngành đầu tiên khai trương mở lối. Vì vậy, ngành giáo dục chúng ta luôn chú trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Trong những năm gần đây, bản thân tôi nhận thấy rằng đạo đức, lối sống bị suy thoái ngày một gia tăng, lứa tuổi vị thành niên vi phạm Pháp luật rất nhiều. Trong nhà trường phổ thông nói chung và Tiểu học nói riêng, các em còn rất nhỏ, vốn hiểu biết chưa nhiều, các em như “Tờ giấy trắng” viết như thế nào thì nó in đậm, in sâu khó xóa mờ. Các em rất thơ ngây, hiếu động, dễ bị dụ dỗ, nghe theo. Mặt khác trong học tập có một số em còn ham chơi, ít chú ý, học hay quên, ý thức tự giác chưa cao. Xét thấy nhiệm vụ của mình cũng rất lớn trong việc giáo dục và hoàn thiện nhân cách cho mỗi con người trong xã hội, bắt đầu là những em học sinh mà mình đang chủ nhiệm. Hằng ngày, hằng giờ đau đáu, trăn trở, làm thế nào để có kết quả tốt nhất cho việc hoàn thiện một đứa trẻ, trở thành một người công dân tốt của gia đình và xã hội? Xuất phát từ những lý do trên, mà bao nhiêu năm làm công tác chủ nhiệm, tôi luôn tìm cho mình những biện pháp tối ưu nhất để áp dụng vào công tác chủ nhiệm của mình sao cho đạt được kết quả như mong muốn, sao cho từng “Mầm non của đất nước” phát triển tươi tốt, đơm hoa kết trái cho đời. Đó cũng là lý do tôi chọn viết Sáng kiến kinh nghiệm, đề tài: “Một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm lớp 4” II. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI. 1- Mục tiêu: – Tìm hiểu thực trạng và nguyên nhân học sinh còn hạn chế về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống. – Đề xuất “Một số biện pháp về làm tốt công tác chủ nhiệm” để giúp các em học sinh trở thành một người có năng lực, có phẩm chất đạo đức, lối sống chuẩn mực, nhân cách tốt trong xã hội. 2- Nhiệm vụ: Do thời gian nghiên cứu còn hạn chế nên tôi chỉ hướng tới giải quyết các nhiệm vụ sau: – Tìm hiểu nguyên nhân học sinh còn hạn chế về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống. – Từ thực trạng và kết quả nghiên cứu tìm ra những nguyên nhân ảnh hưởng đến việc làm công tác chủ nhiệm lớp 4 của giáo viên trong quá trình dạy- học trên lớp. – Đề xuất một số biện pháp để làm tốt công tác chủ nhiệm, nhằm nâng cao hiệu quả chất lượng về mọi mặt của lớp mình chủ nhiệm. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU. 1. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu đề tài này là một số biện pháp, mức độ hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống của từng đối tượng học sinh trong tập thể lớp 4B trường TH Lý Thường Kiệt. 2. Khách thể nghiên cứu: Đề tài này tôi tiến hành nghiên cứu 22 em học sinh lớp 4B, trường TH Lý Thường Kiệt – Huyện CưMgar – Tỉnh DăkLăk. IV. GIỚI HẠN PHẠM VI NGHIÊN CỨU. – Phạm vi đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống. Cụ thể là 22 em học sinh lớp 4B tôi chủ nhiệm. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế của học sinh về các nề nếp trong khi đi học, việc thực hiện nhiệm vụ của người học sinh, phẩm chất đạo đức chuẩn mực và các kĩ năng sống là do nhận thức, ý thức tự giác, giao tiếp còn kém và những đề xuất nhằm hoàn thiện năng lực, phẩm chất, nhân cách đạo đức chuẩn mực của từng học sinh lớp 4B trường TH Lý Thường Kiệt – Huyện CưMgar. – Rút ra bài học kinh nghiệm cùng với kết quả nghiên cứu của đề tài. – Thời gian thực hiện nghiên cứu và áp dụng từ đầu tháng 8/2015 đến cuối tháng 3/2016. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. – Phương pháp quan sát – Phương pháp điều tra, trò chuyện. – Phương pháp nêu gương. – Phương pháp tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lý lứa tuổi học sinh TH. – Phương pháp phân tích, tổng hợp, xử lý số liệu. – Phương pháp đọc sách tham khảo và tài liệu. B. PHẦN NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN: 1. Lý luận khoa học: Trong lịch sử nhân loại, giáo dục đã không ngừng phát triển và là động lực để phát triển kinh tế xã hội; giáo dục đã phục vụ đắc lực cho xã hội, kịp thời điều chỉnh qui mô, thích ứng nhanh với những yêu cầu biến đổi nguồn nhân lực. Ngược lại, sự phát triển nhanh của kinh tế xã hội, của khoa học kỹ thuật cũng đã tác động trở lại để phát triển giáo dục. Hiện nay các nước phát triển, cũng như các nước đang phát triển đều quan tâm cải cách giáo dục nhằm đáp ứng yêu cầu hội nhập hóa, quốc tế hóa. Đây là thời cơ và cũng là thách thức đối với quốc gia đang phát triển (trong đó có Việt Nam). Một mặt nó tạo ra cơ hội cho giáo dục phát triển do nhu cầu về nguồn nhân lực có trí tuệ ngày càng tăng. Mặt khác, kinh tế đòi hỏi giáo dục đáp ứng nhu cầu trước mắt và đón đầu, định hướng đúng cho tương lai. Một ngôi nhà vững chắc thì cần có một nền móng vững chắc. Bởi thế ngay từ trường Tiểu học, học sinh phải được học đầy đủ các môn học để phát triển toàn diện. Ngoài việc lĩnh hội các kiến thức môn học, các em còn cần được trang bị cho mình nhiều kĩ năng khác như: giao tiếp, kĩ năng sống, xử lý tình huống, biết phân biệt đúng sai,thì mới tạo tiền đề cho các em bước tiếp lên các cấp học cao hơn, tiến đến hoàn thiện nhân cách cho các em sau này. 2. Lý luận thực tiễn: Là người giáo viên dạy Tiểu học, hầu như chịu hoàn toàn trách nhiệm về lớp mình phụ trách, trực tiếp giảng dạy các môn học, đồng thời tổ chức, hướng dẫn tất cả các hoạt động giáo dục. Trong những giờ tới trường giáo viên chủ nhiệm lúc nào cũng ở cạnh các em, là người “mẹ thứ hai” của các em, luôn gần gũi, dõi theo mọi hành động, hành vi của từng em trong lớp. Học sinh tiểu học còn chưa biết hành động độc lập, giáo viên phải là người tổ chức các hoạt động, làm sao cho từng em học sinh có được công việc thích hợp và bộc lộ được khả năng của mình. Mở rộng và khơi sâu trí thức, rèn luyện kĩ năng, giáo dục ý thức tự giác và ứng xử, thỏa mãn nhu cầu, kích thích sự hứng thú, phát triển năng lực của học sinh. Trong mắt các em, giáo viên chủ nhiệm là “Thần tượng”, là người mà các em tin tưởng tuyệt đối nhất, cô giáo nói gì các em cũng nghe, vâng lời cô giáo là cái duy nhất có ở tất cả các em học sinh. Chính vì thế mà người giáo viên chủ nhiệm phải chú trọng từng lời nói, hành động, việc làm chuẩn mực nhất trước học sinh, là tấm gương sáng để các em noi theo. Qua công tác chủ nhiệm, người giáo viên tiểu học góp phần to lớn trong việc hình thành và phát triển toàn diện cho các em, giúp các em trở thành người có ích cho xã hội, gia đình và bản thân, để các em trưởng thành, lớn lên, vững vàng bước vào đời. II. THỰC TRẠNG: 1.Thuận lợi, khó khăn: 1.1. Thuận lợi: – Năm học 2015-2016 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 4B. Với tổng số: 22; nữ: 14; Dân tộc: 1; Khuyết tật:1. Số lượng học sinh không đông, dân tộc chiếm ít, việc quản lý, giáo dục các em tương đối thuận lợi. – Lớp được học 2 buổi/ngày, Toán được ôn tập 3 tiết/tuần, tiếng Việt 2 tiết/tuần. Nên có thời gian ổn định để kèm cặp các em yếu. – Các em phần đông được gia đình quan tâm, trang bị tương đối đầy đủ về trang phục, đồ dùng học tập, sách giáo khoa,. – Mặt khác phòng học khang trang, thoáng mát, cơ sở vật chất đầy đủ. – Hầu hết các em đều cố gắng học tập, biết vâng lời, lễ phép với cô giáo. 1.2. Khó khăn: – Địa bàn thuần nông, thời gian đi làm là nhiều, ít có thời gian dành cho sự dạy dỗ, chỉ bảo cho con cái. – Lớp có 3 em thuộc hộ cận nghèo và một số em gia đình kinh tế còn khó khăn nên ảnh hưởng đến cuộc sống của các em, sự chăm lo về mọi mặt không được đầy đủ, chu đáo. Có 6 em nhà ở xa trường, việc đi lại tốn nhiều thời gian, đi suốt đoạn đường xa, mệt mỏi nên ảnh hưởng tới sức khỏe khi các em đến lớp. – Mặt khác trí tuệ các em không đồng đều, khả năng nhận thức (tiếp thu) cũng không đồng đều. Có một số em không chú ý, không có thái độ tích cực học, mà đến lớp như một thói quen, với thái độ lơ đễnh. Khi cô giáo giảng xong, hỏi lại là không biết gì, chính vì vậy những em đó thường hay tự ti, mặc cảm, sợ sệt, nhút nhát, chưa biết thể hiện mình. – Đa số vốn giao tiếp của các em rất hạn chế, lời nói chưa được to, rõ ràng, hay có kiểu nói rất nhỏ, nói lắp bắp, không thể nghe được. * Điều tra thực trạng Tiến hành nghiên cứu tìm hiểu về quá trình tiếp thu bài, học bài và những hành vi ứng xử, giao tiếp, kĩ năng sống, sự hiểu biết,trong lớp học của 22 em học sinh lớp 4B, trường Tiểu học Lý Thường Kiệt. Vào đầu năm, qua tìm hiểu, trao đổi, kiểm tra về tình hình chung của tất cả các em học sinh trong lớp, tôi nhận thấy: Lớp có một số em chưa tự giác học tập, trong giờ học còn lơ là, ít chú ý, tiếp thu chậm, tự ti, mặc cảm, trầm tính, không năng động,; Một số em còn mang tính là quậy phá, hay chọc bạn, đánh bạn; Một số em chưa thực sự ngoan, nói năng còn trống không, chưa lễ phép; Rất nhiều em viết chữ còn sai lỗi nhiều, chưa đẹp; Trang phục chưa mua sắm đầy đủ; Đó là thực trạng mà bản thân tôi luôn lo lắng, băn khoăn khi làm công tác chủ nhiệm lớp 4B trong năm học này. Do thực hiện áp dụng đề tài, nên sau hai tuần đầu năm học, qua trao đổi, tìm hiểu, tôi hướng tới một vài số liệu có nội dung chủ yếu sau: Tổng số HS Nội dung tìm hiểu Số lượng Tỉ lệ 22 (1 KT) 1) Học sinh chưa tự giác học bài cũ. 2) Học sinh viết chữ sai lỗi nhiều, chưa đẹp. 3) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm. 4) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép. 5) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn. 6) Học sinh cá biệt. 7) Học sinh chưa có trang phục đầy đủ. 8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè. 9) Học sinh có vốn kĩ năng sống hạn chế. 10) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng, 10 7 8 12 5 2 4 6 9 7 47,6 33,3 38,0 57,1 23,8 9,5 19,0 28,5 42,9 33,3 Kết quả trên cho thấy, tỉ lệ học sinh thuộc các nội dung trên chiếm nhiều so với tổng số học sinh của lớp. 2. Thành công- hạn chế 2.1. Thành công: Khi có ý tưởng và thực hiện đề tài này, tôi thấy đối với đối tượng học sinh của lớp 4B sẽ có hiệu quả cao hơn, dựa vào những thuận lợi trên và sự quan tâm của giáo viên cũng như một số biện pháp, giải pháp và xử lý linh hoạt phù hợp với đối tượng của học sinh, nắm bắt được tâm sinh lý của học sinh. Chắc chắn cuối năm, lớp sẽ đạt kết quả cao trong học tập, các em sẽ ngoan, đi vào nề nếp tốt, bước lên các lớp tiếp theo, sẽ đem lại thành công như mong muốn. 2.2. Hạn chế: Trong quá trình dạy học trên lớp, hằng ngày cô trực tiếp tổ chức và hướng dẫn các em về mọi mặt tôi thấy một số em khả năng giao tiếp kém, tiếp thu bài còn chậm, có thái độ thờ ơ. Các em chưa tự tin, mạnh dạn trong tŕnh bày ư kiến của ḿnh. Ngược lại trốn tránh, mặc cảm, nhút nhát, sợ sệt. Cha mẹ các em hay đi làm trên nương rẫy, nên có việc gì muốn gặp để trao đổi, liên lạc sẽ không được kịp thời. Một số hạn chế trên, tôi cảm thấy việc áp dụng đề tài cũng gặp ít, nhiều hạn chế. 3. Mặt mạnh, mặt yếu của vấn đề. 3.1. Mặt mạnh: Tôi là một giáo viên đã làm công tác chủ nhiệm liên tục 13 năm, chủ nhiệm lớp 4 được 11 năm, do đó tôi cũng có nhiều cơ hội trau dồi, học hỏi, để đúc rút kinh nghiệm, nhiều biện pháp tốt trong công tác chủ nhiệm của mình. Ngay từ đầu năm tôi đã nhận thấy đa số các em học sinh của lớp ngoan, vâng lời luôn có sự phấn đấu. Khi các em phạm lỗi sai là biết nhận lỗi và sửa lỗi ngay. Các em biết lắng nghe, chia sẻ, đoàn kết, giúp đỡ bạn bè trong lớp và trong trường. Các em ham học, muốn tiến bộ, muốn cô chỉ bảo, làm mẫu. Rất thích thú khi làm được điều đúng, được cô giáo khen. Bản thân luôn được các em yêu quý, kính trọng, vâng lời. Cô phân công, giao việc các em đều nghe và chấp hành tốt. Mặt khác được cha mẹ các em tin tưởng, sẵn sàng hỗ trợ, kết hợp chặt chẽ với cô để giáo dục con em họ, tạo điều kiện tốt nhất để giúp đỡ cô trong công tác chủ nhiệm lớp. 3.2. Mặt yếu: – Một số em ham chơi, không chăm học, không tích cực, không biết, không hiểu là các em càng không chịu học, không để ý gì đến những lời giảng giải phân tích của cô. – Một số em tâm trạng không được tốt, vốn giao tiếp không có, năng lực hạn chế, sức khỏe không đảm bảo, thể trạng gầy, nhỏ so với các bạn đồng trang lứa. – Gia đình các em đa số đi làm về, là nghỉ ngơi một lúc rồi đi ngủ, không còn thời gian bảo ban các em xem ti vi, đọc báo, đọc sách,để mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn. 4. Các nguyên nhân, các yếu tố tác động Từ thực trạng mà học sinh còn hạn chế về sự tiếp thu bài, ít học bài, ít chú ý trong giờ học. Kĩ năng sống, hành vi ứng xử, giao tiếp còn hạn chế, là do các nguyên nhân, các yếu tố tác động sau: 4.1. Về tâm sinh lí: Với lứa tuổi lớp 4, các em đang chuẩn bị bước sang tuổi dậy thì, nên có sự thay đổi về thể chất lẫn tâm sinh lý,Các em mới vừa bước lên lớp 4, có những thay đổi về môn học, kiến thức, các hoạt động khác cũng được nâng cao, dẫn đến các em cũng có phần lo sợ, hoang mang. Mặt khác kiến thức lớp dưới các em học xong rồi quên, không nắm chắc để áp dụng, có nhiều em không còn nhớ một nội dung gì ở dưới lớp 1,2,3 mà mình đã học. Một số em hiếu động, hay bắt nạt bạn, chọc bạn, ít chịu ngồi im. Ở lứa tuổi các em đa số là ham chơi, ít chú ý, thói quen là để cô cùng các bạn giải quyết vấn đề xong, rồi có sẵn để ghi vào. Cách giao tiếp bằng ngôn ngữ của các em chưa hoàn chỉnh, nói năng còn cộc lốc. Việc thực hiện đi vào nề nếp các em vẫn chưa coi trọng, cứ làm những gì mình thích, không quan tâm gì đến nội quy của trường, lớp. 4.2. Về hoàn cảnh gia đình của học sinh: Hầu hết học sinh của lớp tôi chủ nhiệm sống trong môi t
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_de_lam_tot_cong_tac_c.docx