Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn Tự nhiên và xã hội Lớp 3 trong điều kiện ứng phó với dịch Covid – 19 ở trường Tiểu Học
Biện pháp 3: Sử dụng linh hoạt các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học, phát huy tính tích cực, sáng tạo của học sinh trong giờ học môn Tự nhiên và xã hội
Kinh nghiệm qua những năm dạy học tôi thấy, trong một bài học không bao giờ chỉ dùng một phương pháp, một hình thức dạy học mà thành công. Một tiết dạy tốt là kết quả của việc phối hợp sử dụng nhiều phương pháp và hình thức tổ chức dạy học một cách hợp lí. Bởi vậy, trong mỗi giờ dạy nói chung và giờ dạy Tự nhiên và xã hội nói riêng, tôi đã thường xuyên phối hợp sử dụng một cách linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học để tạo nên mộtkhông khí học tập nhẹ nhàng, vui tươi, sao cho giờ học đạt hiệu quả cao nhất.
Phối hợp các phương pháp dạy học
Các phương pháp tôi sử dụng trong giờ Tự nhiên và xã hội đó là:
* Phương pháp quan sát: Đây là phương pháp sử dụng các giác quan để tri giác trực tiếp, có mục đích các sự vật, hiện tượng diễn ra trong tự nhiên và trong cuộc sống. Tùy vào đối tượng quan sát mà tôi hướng dẫn HS nên sử dụng một hay nhiều giác quan để cảm nhận và phán đoán sự vật (mắt nhìn, tay sờ, mũi ngửi,…)
Ví dụ: Khi yêu cầu HS quan sát đặc điểm của một loại quả mà em mang đến lớp, sau khi dùng các giác quan để quan sát, HS báo cáo được kết quả như sau:
+ Bảo An: Quả xoài chín của con có màuvàng, vỏ nhẵn, mùi thơm, vị ngọt.
+ Bích Ngọc: Quả xoài của con có màu xanh, không có mùi thơm, ăn giòn và ngọt.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn Tự nhiên và xã hội Lớp 3 trong điều kiện ứng phó với dịch Covid – 19 ở trường Tiểu Học

UỶ BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ p TRƯỜNG TIỂU HỌC THANH LIỆT SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3 TRONG ĐIỀU KIỆN ỨNG PHÓ VỚI DỊCH COVID-19 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC Lĩnh vực/ Môn: Tự nhiên và xã hội Cấp học: Tiểu học Tên tác giả: Nguyễn Thanh Thúy Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Thanh Liệt Chức vụ: Giáo viên cơ bản Tháng 4, năm 2022 MỤC LỤC PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ Lí do chọn đề tài 2 Mục đích nghiên cứu 3 Khách thể và đổi tượng nghiên cứu 3 Nhiệm vụ nghiên cứu 3 Phạm vi nghiên cứu 3 PHẦN B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Cơ sở lí luận 4 Cơ sở thực tiễn 5 Biện pháp thực hiện 7 Kết quả đạt được 18 PHẦN C. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ Kết luận 20 Khuyến nghị 20 PHẦN A. ĐẶT VẤN ĐỀ Lí do chọn đề tài Tự nhiên và Xã hội là một trong những môn học đóng vai trò quan trọng trong chương trình tiểu học. Thông qua môn học, giúp cho học sinh có những hiểu biết cơ bản ban đầu thiết thực về tự nhiên, xã hội, các mối quan hệ của con người xảy ra xung quanh các em; hình thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng như quan sát, phân tích, so sánh, đối chiếu, đánh giá, tổng hợp... tích hợp cho học sinh những kĩ năng cần thiết của cuộc sống. Ngoài ra, môn Tự nhiên và Xã hội còn hình thành và phát triển ở học sinh lòng yêu thiên nhiên, đất nước, yêu cái đẹp và biết bảo vệ chúng; Hình thành cho học sinh lòng ham hiểu biết khoa học, thích tìm tòi, khám phá và sáng tạo. Để đáp ứng yêu cầu phát triển của nền giáo dục nước nhà, chương trình giáo dục phổ thông nói chung và chương trình giáo dục bậc Tiểu học nói riêng đã thực hiện đổi mới Sách giáo khoa và chương trình dạy học để nâng cao chất lượng nguồn lực, trang bị cho các thế hệ tương lai nền tảng văn hóa vững chắc năng lực thích ứng cao trước mọi biến động của thiên nhiên và xã hội. Điều này thể hiện rõ trong quan điểm chỉ đạo của Nghị quyết 28/2014/QH13 ngày 28/11 /2014 của Quốc hội về đổi mới Chương trình sách giáo khoa giáo dục phổ thông: “Tạo chuyển biến căn bản, toàn diện về chất lượng giáo dục phổ thông; kết hợp dạy chữ, dạy người và định hướng nghề nghiệp, góp phần chuyển nền giáo dục nặng về truyền thụ kiến thức sang nền giáo dục phát triển toàn diện cả về phẩm chất và năng lực, hài hòa đức, trí, thể, mĩ và phát huy tốt tiềm năng của mỗi học sinh”. Năm học 2021 – 2022 là năm học cuối cùng HS học tập theo chương trình giáo dục phổ thông hiện hành năm 2000. Giai đoạn này HS dần được tiếp cận với chương trình giáo dục phổ thông 2018. Đây cũng là một năm học đặc biệt khi học sinh cả nước phải học tập trực tuyến ngay từ đầu năm học để ứng phó với tình hình dịch bệnh Covid-19 đang diễn biến phức tạp trên khắp cả nước. Vậy làm thế nào để học sinh học tập hiệu quả, phát huy huy được năng lực của bản thân trong tình hình khó khăn như thế này? Đó chính là câu hỏi mà tôi luôn trăn trở khi chuẩn bị bước vào năm học mới. Để đáp ứng được yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học các môn học nói chung và môn Tự nhiên và xã hội nói riêng, tôi đã tìm tòi, nghiên cứu đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học trực tuyến môn Tự nhiên và xã hội. Chính vì vậy, đề tài “Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 trong điều kiện ứng phó với dịch Covid – 19 ở trường Tiểu học” được tôi chọn làm đề tài nghiên cứu trong năm học này. Mục đích nghiên cứu Đánh giá thực trạng và đề xuất một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tự nhiên và xã hội ở trường tiểu học. Khách thể và đối tượng nghiên cứu Khách thể nghiên cứu: Phương pháp giảng dạy môn Tự nhiên và xã hội lớp 3. Đối tượng nghiên cứu: Biện pháp nâng cao chất lượng dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3. Nhiệm vụ nghiên cứu Nghiên cứu cơ sở lí luận của việc dạy học môn Tự nhiên và xã hội cho học sinh lớp 3. Nghiên cứu thực trạng dạy Tự nhiên và xã hội cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học tôi đang công tác. Đề xuất biện pháp và thực nghiệm dạy học Tự nhiên và xã hội cho học sinh lớp 3 ở trường Tiểu học tôi đang công tác. Phạm vi nghiên cứu Đối tượng khảo sát: Giáo viên và học sinh khối lớp 3 trường Tiểu học tôi đang công tác. Đối tượng thực nghiệm: Học sinh lớp 3D trường Tiểu học tôi đang công tác năm học 2021 - 2022. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 - 2021 đến tháng 4 - 2022. PHẦN B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Cơ sở lí luận Định hướng đổi mới phương pháp dạy học môn Tự nhiên và xã hội Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI đã xác định: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kĩ năng của người học, khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kĩ năng, phát triển năng lực. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học”. Cùng với đó, trong phần mục tiêu tổng quát các chỉ tiêu quan trọng và nhiệm vụ trọng tâm giai đoạn 2016 – 2020, Nghị quyết Đại hội XII của Đảng đã xác định một trong những nhiệm vụ trọng tâm “đột biến chiến lược” đó là: “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao”. Định hướng trên đây đã được pháp chế hóa trong Luật Giáo dục, điều 24.2: “Phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học; bồi dưỡng phương pháp tự học, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Như vậy, định hướng đổi mới phương pháp giáo dục đã được khẳng định. Cốt lõi của việc đổi mới phương pháp dạy học ở trường Tiểu học là giúp học sinh hướng tới học tập chủ động, chống lại thói quen học tập thụ động. Vai trò của môn Tự nhiên và xã hội ở trường Tiểu học Môn tự nhiên và xã hội là một môn học có tính tích hợp cao. Tính tích hợp ấy được thể hiện ở 3 điểm sau: + Chương trình môn Tự nhiên và xã hội xem xét tự nhiên – con người – xã hội trong một thể thống nhất, có mối quan hệ qua lại, tác động lẫn nhau. + Các kiến thức trong chương trình môn Tự nhiên và xã hội là kết quả của việc tích hợp kiến thức của nhiều ngành khoa học như Sinh học, Vật lí, Hóa học, + Chương trình môn Tự nhiên và xã hội có cấu trúc phù hợp với nhận thức của học sinh, theo hình thức đồng tâm, phát triển qua các lớp. Cùng là một chủ đề dạy học nhưng ở lớp 1 kiến thức trang bị sơ giản hơn ở lớp 2. Mức độ kiến thức được nâng dần lên ở lớp 3 và các lớp cuối cấp với các môn Khoa – Sử - Địa ở lớp 4, 5. Có thể nói Tự nhiên và xã hội là môn học cung cấp, trang bị cho HS những kiến thức về Tự nhiên và xã hội trong cuộc sống hàng ngày. Các em là chủ thể nhận thức. Vậy nên khi giảng dạy người GV cần tích cực đổi mới phương pháp cho phù hợp với đặc điểm nhận thức của HS, làm sao để HS phát huy được năng lực của mình, lĩnh hội được kiến thức một cách chủ động nhất. Cơ sở thực tiễn Đặc điểm của trường tiểu học tôi đang công tác Trường Tiểu học Thanh Liệt của chúng tôi là một trường thuộc xã ven đô, tốc độ đô thị hoá nhanh. Do xã hội ngày càng phát triển, trong những năm gần đây, dân cư đông đúc, đa dạng hoá nhiều thành phần. Trình độ dân trí của khu vực ngày một nâng cao nên các gia đình rất quan tâm đến việc học tập của con em mình. Trường có bề dày thành tích trong công tác dạy và học cùng đội ngũ giáo viên vững vàng về chuyên môn nghiệp vụ, giàu kinh nghiệm và hết lòng yêu thương học sinh. Năm học 2021 - 2022, trường tôi có 1569 học sinh và 32 lớp học, trong đó khối 3 có 261 học sinh được xếp vào 5 lớp. Đồng hành với các con là các đồng chí giáo viên giàu kinh nghiệm, trình độ chuyên môn vững vàng, yêu nghề, mến trẻ. Lớp 3D do tôi chủ nhiệm năm học này gồm 54 học sinh với 26 HS nam và 28 HS nữ. Thuận lợi, khó khăn Thuận lợi Ban giám hiệu gồm những đồng chí năng nổ, nhiệt huyết với công tác chuyên môn. Ngay từ đầu năm học, Ban giám hiệu nhà trường đã tổ chức nhiều buổi tập huấn giới thiệu tổng thể về về chương trình GDPT 2018 và chương trình lớp 3 năm học 2022 – 2023 để GV nắm bắt và tiếp cận với phương pháp giáo dục mới. Bên cạnh đó, nhà trường cũng tổ chức nhiều buổi tập huấn về công nghệ thông tin, cách sử dụng và khai thác triệt để các ứng dụng dạy học trực tuyến như ZOOM, Google meet, ; các ứng dụng giao bài, chấm bài, kiểm tra trực tuyến như Azota, Zalo, SHub Classroom, Google Form, Padlet và các ứng dụng trò chơi trực tuyến như Qizzizz, Classkick, Thư viện nhà trường đặt mua nhiều loại sách tham khảo, tạp chí của ngành như Thế giới trong ta, Giáo dục Tiểu học, Giáo dục Thủ đô, để giáo viên cập nhật thông tin, tự học hỏi, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đội ngũ giáo viên của trường có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, giàu kinh nghiệm, tâm huyết với nghề, tích cực tham gia các buổi tập huấn, bồi dưỡng chuyên môn do Phòng giáo dục và nhà trường tổ chức để trau dồi kiến thức, phát triển năng lực chuyên môn, nghiệp vụ. Phụ huynh HS rất quan tâm đến việc học tập của con, tích cực phối hợp với GV trong các hoạt động giáo dục, đặc biệt là giai đoạn HS học tập trực tuyến. Đa số học sinh của trường đều ngoan ngoãn, nhanh nhẹn, thích tìm tòi, khám phá. Các em được trang bị đầy đủ sách vở, đồ dùng học tập cho các môn học. Khó khăn Do dịch bệnh Covid diễn biến phức tạp, lây lan nhanh trên phạm vi cả nước nên HS phải học tập trực tuyến từ đầu năm học. Trong giai đoạn này, Bộ giáo dục đã có công văn số 3969/BGDĐT-GDTH hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học đối với lớp 3, 4, 5 trong điều kiện ứng phó với dịch Covid 19. Theo đó hầu hết thời lượng các bài học đều bị giảm xuống một nửa nên khó khăn cho việc tổ chức các hoạt động học tập cho HS. Trong nhà trường, môn Tự nhiên và xã hội thường bị coi là môn phụ. Nó là môn được đánh giá bằng định tính nên chưa được phụ huynh và HS coi trọng. Hầu hết các giáo viên chỉ chú trọng vào hai môn Toán và Tiếng Việt. Chính vì vậy mà môn Tự nhiên và xã hội thường được dạy một cách đại khái, không đi sâu nghiên cứu, tìm tòi, đổi mới phương pháp dạy học. Điều đó làm mất dần sự hứng thú, say mê học tập của học sinh. Một số GV còn thiếu kinh nghiệm hoặc ngại tổ chức các hoạt động dạy học tích cực hoặc có tổ chức thì còn lúng túng, mất thời gian. Do HS phải học tập trực tuyến từ đầu năm học nên GV và HS chỉ được làm quen nhau qua màn hình máy tính, điện thoại. Điều đó khiến GV phải mất nhiều thời gian để nắm bắt được đặc điểm tính cách và tình hình học tập của các em. Bản thân các em học sinh còn nhỏ, khả năng tập trung còn chưa cao nên việc giãn cách xã hội, HS phải ở nhà nhiều khiến tâm lí các em ít nhiều bị ảnh hưởng, một số em thiếu tập trung trong học tập. Việc học trực tuyến gây khó khăn cho GV khi tổ chức được các hình thức dạy học tích cực như hoạt động nhóm, đóng vai, xây dựng dự án,hoặc tổ chức các trò chơi để tạo hứng thú học tập, phát triển năng lực HS. Khảo sát tình hình HS Để nắm bắt được tình hình học tập của HS, ngay từ đầu năm học tôi đã tiến hành khảo sát hứng thú của GV và chất lượng học tập môn Tự nhiên và xã hội của HS bằng hình thức HS thực hiện trả lời các câu hỏi trên ứng dụng Google form. Kết quả thu được như sau: * Về hứng thú học tập: + Số HS thích học môn Tự nhiên và xã hội: 20/54 em (chiếm 37%) + Số HS thường xuyên tham gia thảo luận, trao đổi với các bạn trong nhóm khi học môn Tự nhiên và xã hội: 22/54 em (chiếm 40%) + Số HS thích và rất thích tham gia các trò chơi học tập trong giờ học Tự nhiên và Xã hội: 50/54 em (chiếm 91%) * Về chất lượng học tập: + Hoàn thành tốt: 16 học sinh, chiếm 29,6% + Hoàn thành: 38 học sinh, chiếm 70,4%. Với những thực trạng như nêu ở trên, tôi xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 theo hướng phát triển năng lực HS trong điều kiện dạy học trực tuyến ứng phó với dịch bệnh Covid-19. Biện pháp thực hiện Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức của giáo viên về vai trò của môn Tự nhiên và xã hội ở trường Tiểu học và tổ chức hiệu quả các buổi sinh hoạt chuyên môn Để nâng cao hiệu quả giảng dạy môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 tôi thấy việc giáo viên ý thức được vai trò của môn học đối với việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh vô cùng quan trọng. Chính vì vậy mà ngay từ đầu năm học, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, với cương vị là tổ trưởng chuyên môn, tôi đã đề ra kế hoạch đó là dạy đủ, nghiêm túc các môn học theo thời khóa biểu, không cắt xén chương trình. Riêng với môn Tự nhiên và xã hội, tôi đã tổ chức cho các thành viên trong khối trao đổi về mục tiêu, nhiệm vụ, tầm quan trọng của môn học để giáo viên nhận thấy không có môn học nào là chính, môn học nào là phụ mà tất cả các môn học đều góp phần hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học bậc Trung học cơ sở, như mục tiêu của Giáo dục Tiểu học đã đề ra. Bên cạnh đó, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi cùng các đồng chí giáo viên trong khối cùng nhau nghiên cứu, trao đổi nội dung bài dạy, xác định rõ ràng các hoạt động đảm bảo kiến thức cho HS theo công văn 3969, tìm ra những phương pháp dạy học tích cực nhất, hình thức tổ chức dạy học phù hợp nhất giúp các em có những giờ học bổ ích, lí thú, giúp các em lĩnh hội tri thức một cách hiệu quả nhất. Ví dụ: Bài Hoạt động thần kinh (trang 28) Theo hướng dẫn thực hiện nội dung dạy học trong điều kiện ứng phó với dịch Covid-19 của công văn 3969 thì bài 13, 14 Hoạt động thần kinh và bài Hoạt động thần kinh (tiếp theo) được thực hiện trong 1 tiết và không bố trí thời lượng để học bài Cơ quan thần kinh (bài 12). Với suy nghĩ, HS muốn hiểu được hoạt động của cơ quan thần kinh thì phải nắm được các bộ phận của cơ quan thần kinh. Để đảm bảo được mục tiêu của bài học, trong buổi sinh hoạt chuyên môn tổ, tôi và các đồng chí GV trong tổ đã trao đổi và thống nhất đưa thêm nội dung tìm hiểu về các bộ phận của cơ quan thần kinh vào bài học. Cả tổ đã thống nhất các hoạt động cơ bản chủ yếu của tiết học như sau: + Hoạt động 1: Tìm hiểu về cơ quan thần kinh + Hoạt động 2: Tìm hiểu về phản xạ + Hoạt động 3: Tìm hiểu về vai trò của não. Bên cạnh đó, trong các buổi sinh hoạt chuyên môn, GV trong tổ chúng tôi cũng thảo luận, thống nhất nội dung phiếu giao việc cho HS chuẩn bị bài trước. Việc làm này vừa nhằm phát huy năng lực và khả năng tự học của HS, vừa hạn chế việc “cháy giáo án” của các tiết học. Ví dụ: Với bài Hoạt động thần kinh, trước buổi học tôi đã gửi trong nhóm lớp một phiếu giao việc để các em chuẩn bị bài: PHIẾU GIAO VIỆC Hãy quan sát các hình trong SGK trang 26, 27 và tìm hiểu: + Cơ quan thần kình gồm những bộ phận nào? + Các bộ phận ấy được bảo vệ như thế nào và có vai trò gì trong các hoạt động của cơ thể? Con đã bao giờ bị giẫm phải một vật nhọn chưa? Khi đó con có phản ứng như thế nào? Vì sao con có phản ứng như vậy? Nhờ nâng cao được nhận thức của giáo viên về tầm quan trọng của môn học và tổ chức nghiêm túc các buổi sinh hoạt chuyên môn, tôi thấy 100% các đồng chí giáo viên trong khối thực hiện dạy nghiêm tú
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_nang_cao_hieu_qua_day.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn Tự nhiên và xã hội Lớp 3 trong.pdf