Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học tiếng Việt ở trường Trung học phổ thông
Cách vẽ bản đồ tư duy
a. Công cụ vẽ bản đồ tư duy
Có hai cách để tạo ra MM: vẽ bằng tay hoặc bằng máy vi tính. Nếu vẽ bằng tay thì HS chỉ cần một tờ giấy A4, một hộp bút màu và trí tưởng tượng của mình. Với cách thức vẽ bằng máy vi tính, HS có thể sử dụng các phần mềm Mind Mapping (GV và HS có thể sử dụng một số phần mềm sau để tạo MM trong quá trình dạy học: phần mềm Bzan’s iMindMap, phần mềm Mindjet MindManager Professional, phần mềm Inspiration, phần mềm Visual Mind, phần mềm Free Mind,…) hoặc vẽ bằng Microsoft Word, hình ảnh trung tâm có thể dễ dàng tìm kiếm trên internet.
b. Quy tắc vẽ bản đồ tư duy
Để sử dụng MM một cách có hiệu quả, trong quá trình lập và sử dụng MM cần tuân theo các quy tắc: nhấn mạnh, liên kết và mạch lạc.
- Quy tắc về nhấn mạnh
Nhấn mạnh có tác dụng tăng trí nhớ và đẩy mạnh sáng tạo. Để đạt hiệu qủa nhấn mạnh tối ưu trong MM, ta có thể làm như sau:
Bắt đầu với một hình màu ở trung tâm, mỗi hình ảnh dùng ít nhất ba màu và sử dụng hình ảnh ở mọi nơi trong MM. Sử dụng hình ảnh sẽ thu hút được sự tập trung của mắt và não, kích hoạt vô số liên kết và giúp cho việc ghi nhớ dễ dàng hơn. Nếu buộc phải dùng từ thay cho hình ảnh làm trung tâm trong MM, hãy biến nó thành hình ảnh bằng cách dùng kích cỡ, màu sắc và hình thức lôi cuốn. Thay đổi kích cỡ ảnh, chữ in thích hợp để chỉ tầm quan trọng tương đối giữa các thành phần trong cùng mộtphân cấp.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học tiếng Việt ở trường Trung học phổ thông

BM 01-Bia SKKN SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐỒNG NAI Đơn vị: TRƯỜNG THPT XUÂN LỘC Mã số: ................................ (Do HĐKH Sở GD&ĐT ghi) SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM TÊN ĐỀ TÀI: SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở TRƯỜNG THPT Người thực hiện: TRẦN THỊ KIM TÂN. Lĩnh vực nghiên cứu: Quản lý giáo dục 1 Phương pháp dạy học bộ môn: Ngữ văn 1 (Ghi rõ tên bộ môn) Lĩnh vực khác 1 (Ghi rõ tên lĩnh vực) Có đính kèm: Các sản phẩm không thề hiện trong bản in SKKN SƠ LƢỢC LÝ LỊCH KHOA HỌC 1 1 Mô hình1 Phần mềm 1 Phim ảnh 1 Hiện vật khác Năm học: .............................. BM02-LLKHSKKN THÔNG TIN CHUNG VỀ CÁ NHÂN 1Họ và tên:TRẦN THỊ KIM TÂN Ngày tháng năm sinh: 25/7/2012 Nam, nữ: Nữ Địa chỉ: Trường THPT Xuân Lộc Điện thoại:067.3871115(CQ)/ 061.3751698(NR); ĐTDĐ: 0933525801 Fax: E-mail: Chức vụ: Phó Hiệu trưởng Đơn vị công tác: TRÌNH ĐỘ ĐÀO TẠO Học vị (hoặc trình độ chuyên môn, nghiệp vụ) cao nhất: Thạc sĩ Năm nhận bằng: 2012 Chuyên ngành đào tạo: Lý luận và phương pháp dạy Văn - Tiếng Việt KINH NGHIỆM KHOA HỌC Lĩnh vực chuyên môn có kinh nghiệm: Giảng dạy môn Văn Số năm có kinh nghiệm: 26 Các sáng kiến kinh nghiệm đã có trong 5 năm gần đây: Từ Hán Việt và cách vặn dụng trong văn chương Một số biện pháp tích cực hóa hoạt động nhận thức của học sinh trong day học văn học sử ở trường THPT BM03-TMSKKN Tên SKKN (VIẾT IN HOA ĐẬM) LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trình bày thực trạng các yếu tố chủ quan và khách quan có ảnh hưởng đến các vấn đề liên quan với đề tài của tác giả trong công tác quản lý giáo dục, tổ chức dạy học và các hoạt động giáo dục khác của đơn vị cũng như của ngành Giáo dục. Qua đó, giải thích rõ tính cấp thiết của đề tài (thực trạng, nhu cầu đổi mới về mặt lý luận và thực tiễn). Tác giả trình bày ngắn gọn, đầy đủ các vấn đề có liên quan trực tiếp với đề tài. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Cơ sở lý luận Trình bày tóm tắt các quan điểm, những việc đã làm của các nhà khoa học, các nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục về những vấn đề có liên quan đến đề tài của mình (có cước chú tài liệu trích dẫn: Tài liệu nào? Của ai?). Nêu tóm tắt các vấn đề bức xúc cần được đổi mới, cải tiến hoặc tăng cường áp dụng dựa trên các quan điểm nghiên cứu khoa học và thực tiễn của bản thân người thực hiện sáng kiến kinh nghiệm. Tác giả trình bày ngắn gọn, đầy đủ các vấn đề có liên quan trực tiếp với đề tài. Trong đó, nêu khái quát điểm mới của tác giả hoặc những điểm được cải tiến từ giải pháp đã có của tác giả hoặc của người khác, hoặc là giải pháp áp dụng công nghệ mới trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo của tác giả. Nội dung, biện pháp thực hiện các giải pháp của đề tài Trình bày các giải pháp của mình đã triển khai thực hiện qua lý luận và thử nghiệm trong thực tiễn đối với từng vấn đề đã nêu ở phần cơ sở lý luận, đồng thời đưa ra các ví dụ minh chứng cụ thể. Qua đó, phân tích các điểm mới, các điểm được cải tiến, áp dụng của cá nhân đưa ra mà chưa ai đề cập đến hoặc đã có đề cập nhưng chưa đủ, chưa đúng. Đây là phần nội dung chủ yếu của đề tài SKKN. Tác giả phải trình bày cụ thể, chi tiết để chứng tỏ đề tài thực sự có tổ chức thực hiện, có kiểm chứng qua thực tế. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI Trình bày những lợi ích trực tiếp thu được do áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này vào dạy học, giáo dục học sinh và quản lý giáo dục tại đơn vị hoặc trong toàn ngành như cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao chất lượng công việc; góp phần giải quyết những vấn đề của thực tiễn, đóng góp vào việc phát triển giáo dục – đào tạo, phục vụ cho công tác giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học tại đơn vị hoặc trong toàn ngành. Trình bày số liệu thống kê, phân tích so sánh kết quả đạt được so với trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này. Tác giả trình bày ngắn gọn, đầy đủ các vấn đề có liên quan trực tiếp với đề tài. ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG Xác định đề tài có phạm vi áp dụng trong thực tế đạt hiệu quả tại đơn vị hoặc đã phổ biến áp dụng trong ngành Giáo dục hoặc có khả năng áp dụng trong phạm vi rộng đạt hiệu quả. Trên cơ sở đó, đề xuất: Các luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chính sách của đơn vị hoặc của ngành Giáo dục. Đưa ra các giải pháp khuyến nghị có khả năng ứng dụng thực tiễn, dễ thực hiện và dễ đi vào hoạt động giáo dục. Tác giả trình bày ngắn gọn, đầy đủ các vấn đề có liên quan trực tiếp với đề tài. TÀI LIỆU THAM KHẢO Ghi tên tài liệu tham khảo và tên tác giả đã được sử dụng trích dẫn trong sáng kiến kinh nghiệm. Tên tài liệu - Tác giả - Nhà xuất bản - Năm xuất bản .................................................................................... NGƯỜI THỰC HIỆN (Ký tên và ghi rõ họ tên) Lưu ý: Sáng kiến kinh nghiệm soạn thảo trên máy vi tính và in ra giấy khổ A4; quy định canh lề: Trên 2,0 cm, dưới 1,5 cm, phải 3,0 cm, trái 1,5 cm; Font chữ Việt Nam UNICODE (Times New Roman); size chữ 14pt. Tất cả biểu mẫu đóng thành tập theo thứ tự: Bìa (BM01-Bia SKKK), Lý lịch khoa học (BM02-LLKHSKKN), Thuyết minh đề tài (BM03-TMSKKN), Phiếu nhận xét, đánh giá của đơn vị (BM04-NXĐGSKKN). Các sản phẩm gửi kèm sáng kiến kinh nghiệm như đĩa CD (không nhận đĩa mềm), phim ảnh đóng gói trong 01 phong bì bên ngoài có dán nhãn theo mẫu (BM 01-Bia SKKN), các mô hình gửi kèm sáng kiến kinh nghiệm phải được đóng thùng bên ngoài có dán nhãn theo mẫu (BM 01-Bia SKK SỬ DỤNG BẢN ĐỒ TƯ DUY TRONG DẠY HỌC TIẾNG VIỆT Ở TRƯỜNG THPT I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI, thế kỷ của sự bùng nổ tri thức khoa học và công nghệ. Để có thể vươn lên kịp thời đại, đất nước Việt Nam cần những người lao động có tri thức, có tư duy sáng tạo. Tình hình đó đòi hỏi nền giáo dục của nước ta phải đổi mới một cách toàn diện. Để thực hiện được mục tiêu đổi mới giáo dục như trênc chúng ta không thể không nói đến phương pháp dạy học tích cực. Điều 5 của Luật giáo dục (2005) đã chỉ rõ “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng cho người học khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên”. Muốn làm được điều này, giáo viên (GV) cần phải dạy cho học sinh biết cách vận dụng kiến thức linh hoạt trong những tình huống cụ thể của cuộc sống. Theo nhiều nhà khoa học, việc đổi mới hoạt động dạy học hiện nay vẫn còn gặp nhiều khó khăn, các buổi học chưa thật sự tạo hứng thú học tập và chưa phát huy được tính tích cực của học sinh trong việc tổ chức các hoạt động nhận thức. Đây là hạn chế chung của nhiều môn học trong đó có môn Ngữ văn. Môn Văn trong nhà trường trong đó có các bài tiếng Việt (TV) có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị hành trang trí tuệ, tâm hồn cho thế hệ trẻ bước vào cuộc sống tương lai. Song thực tế, thực trạng giảng dạy Tiếng Việt ở nhà trường Trung học phổ thông (THPT) còn nhiều bất cập, chưa phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh (HS). Nguyên nhân chủ yếu là do một bộ phận lớn GV chưa xác định được phương pháp giảng dạy phù hợp với các bài Tiếng Việt khiến HS không hứng thú học tập, hiệu quả giờ học không cao. Nhận thức được tầm quan trọng của các bài Tiếng Việt trong chương trình THPT cũng như hướng tới nhiệm vụ đổi mới phương pháp (PP) dạy Tiếng Việt nói riêng, dạy học Ngữ văn nói chung, chúng tôi chọn đề tài: Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học tiếng Việt ở trường Trung học phổ thông” với hy vọng góp phần thực hiện yêu cầu đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học văn ở trường Trung học phổ thông. Lịch sử vấn đề Ở nước ngoài, vấn đề ứng dụng bản đồ tư duy (Mindmap – MM) trong cuộc sống đã được Tony Buzan và Barry Buzan đề cập trong cuốn “Sơ đồ tư duy” (1995). Trong cuốn sách này, hai anh em nhà Buzan đã đưa ra các ứng dụng của MM . Bên cạnh các ứng dụng của MM đối với cá nhân, đối với gia đình, trong lĩnh vực kinh doanh và các lĩnh vực chuyên môn thì các tác giả còn bàn đến những ứng dụng của MM trong giáo dục cụ thể như dùng để soạn ghi chú cho bài giảng, hoạch định cho năm, hoạch định cho một học kỳ, hoạch định cho ngày, bài học và cách trình bày, thi cử, dự án . Từ đó, hai anh em Buzan đã khái quát 7 lợi ích của việc giảng dạy với MM: MM gợi hứng thú cho người học. MM làm cho bài học cũng như cách trình bày bài học ngẫu hứng, sáng tạo và lý thú hơn với GV và HS. Nhờ MM, việc ghi chú bài giảng của GV trở nên linh hoạt. GV có thể làm mới, bổ sung bài giảng một cách dễ dàng và nhanh chóng. MM giúp người học đạt điểm cao trong các kỳ thi MM giúp người học hiểu sâu hơn về chủ đề Số lượng ghi chú cho bài giảng giảm đi rất nhiều MM vô cùng hữu ích cho các em thiếu niên “có vấn đề về học tập”, đặc biệt là những em mắc chứng khó đọc. Sau cuốn sách này, Tony Buzan viết tiếp cuốn “Bản đồ tư duy trong công việc” để cụ thể hóa việc vận dụng MM. Đặc biệt cuốn sách“Tôi tài giỏi, bạn cũng thế” của Adam Khoo về ích lợi của việc sử dụng bản đồ tư duy (Mindmap - MM) được nhiều người quan tâm. Ở Việt Nam, MM được nghiên cứu và đưa vào sử dụng chủ yếu trong lĩnh vực kinh doanh vào những năm đầu của thế kỷ XXI. Đến năm 2006, vấn đề ứng dụng MM trong dạy học mới thực sự được chú ý khi dự án “Ứng dụng công cụ phát triển tư duy –Sơ đồ tư duy” của nhóm Tư duy mới (New Thinking Group – NTG), Đại học Quốc gia Hà Nội được triển khai thực hiện. Từ đó, xuất hiện các đề tài nghiên cứu khoa học như: “Ứng dụng sơ đồ tư duy nâng cao hiệu quả dạy học tiếng Anh” của tác giả Nguyễn Đặng Nguyệt Hương, Phạm Thu Liên, ĐHSP Hà Nội và chuyên đề “Giảng dạy và học tập với công cụ bản đồ tư duy” của Thạc sĩ Trương Tinh Hà. Trên Tạp chí Giáo dục cũng có một số bài viết đề cập đến vai trò và hiệu quả của việc sử dụng MM trong dạy học. Tiêu biểu là các bài viết: “Bản đồ tư duy – Công cụ hỗ trợ hiệu quả trong dạy học môn Toán” của Chu Cẩm Thơ, “Hệ thống hóa bài tập Vật lí với Sơ đồ tư duy” của Lê Công Triêm, Lương Thị Lệ Hằng, “Sử dụng bản đồ tư duy - một biện pháp hiệu quả hỗ trợ HS học tập môn Toán” của Trần Đình Châu. Người đầu tiên đưa MM ứng dụng vào dạy học Văn là thầy Hoàng Đức Huy - GV Trung tâm Giáo dục thường xuyên quận 4, Tp. HCM. Sáng kiến đổi mới dạy học này của thầy được thể hiện trong nghiên cứu “Bản đồ tư duy đổi mới dạy học”. Tuy nhiên, công trình này chỉ đề cập đến phương pháp giảng dạy bằng bản đồ tư duy với những tác phẩm thơ, văn tự sự và văn thuyết minh. Cho đến nay, chúng tôi chưa phát hiện có công trình khoa học nào nghiên cứu phát huy tiềm năng bộ não của HS để tổ chức dạy học phần lý thuyết Tiếng Việt. TỔ CHỨC THỰC HIỆN ĐỀ TÀI Cơ sở lý luận Khái niệm tư duy và đặc điểm tâm lý lứa tuổi Khái niệm về tư duy Tư duy là một quá trình tâm lí, phản ánh hiện thực khách quan một cách gián tiếp trên cơ sở xác định những thuộc tính bản chất của sự vật, hiện tượng và có sự tìm kiếm, phát hiện cái mới về chất một cách độc lập. Trong đời sống, con người đã và đang nhận thức về thế giới hiện thực một cách sâu sắc hơn, không dừng lại ở giai đoạn nhận thức cảm tính mà vươn tới một nấc thang cao hơn là nhận thức lí tính. Nói cách khác, trước thực tiễn chằng chịt những mối quan hệ phức tạp, con người buộc phải nhận thức thế giới bằng những quá trình mới, phát hiện những thuộc tính mới, mối quan hệ mới của sự vật, hiện tượng. Quá trình nhận thức ấy được gọi là tư duy. Như vậy, có thể khẳng định: Tư duy là quá trình nhận thức, là sự phản ánh những thuộc tính chung và bản chất, tìm ra những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật, hiện tượng mà ta chưa từng biết. Rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy Ngôn ngữ là công cụ để tư duy, tư duy là hiện thực trực tiếp của ngôn ngữ. Hai lĩnh vực này là một khối thống nhất biện chứng có quan hệ thúc đẩy lẫn nhau cùng phát triển . Quá trình chiếm lĩnh tiếng Việt khoa học ở học sinh là quá trình thông hiểu các quy luật cấu trúc nội bộ của tiếng Việt, quy luật hoạt động của nó và trên cơ sở đó hình thành các kỹ năng và kỹ xảo ngôn ngữ. Song song với quá trình đó là quá trình hình thành và phát triển các thao tác, các phẩm chất tư duy. Thực tiễn cho thấy học sinh nào yếu về tư duy đồng thời cũng yếu về ngôn ngữ và ngược lại. Vì thế nếu học sinh am hiểu và nắm vững nội dung vấn đề cần trình bày, các em sẽ nói và viết lưu loát còn chưa hiểu nội dung vấn đề, các em sẽ diễn đạt lúng túng , mắc nhiều sai sót. Do đó rèn luyện ngôn ngữ gắn liền với rèn luyện tư duy là một trong những nguyên tắc đặc thù của phương pháp dạy học tiếng Việt ở trường phổ thông. 1.1.1.2. Năng lực tư duy và đặc điểm tâm lý của học sinh THPT Theo tâm lí học lứa tuổi, HS cấp THPT ở vào thời kỳ mà sự phát triển thể chất của con người đang đi vào giai đoạn hoàn chỉnh. Bên cạnh sự phát triển về thể lực, sự phát triển của hệ thần kinh cũng có những thay đổi quan trọng do cấu trúc bên trong của não phức tạp và các chức năng não phát triển. “Cấu trúc của tế bào bán cầu đại não có những cấu trúc như trong cấu trúc tế bào não của người lớn. Số lượng dây thần kinh liên hợp tăng lên, liên kết các phần khác nhau của vỏ đại não lại. Điều đó tạo tiền đề cần thiết cho sự phức tạp hoá hoạt động phân tích, tổng hợp của vỏ bán cầu đại não trong quá trình học tập”[11, tr.67]. Học sinh ở tuổi này trưởng thành hơn, sở hữu nhiều kinh nghiệm sống hơn, các em nhận ra được vị trí, vai trò của mình. Do vậy, thái độ có ý thức của các em trong hoạt động học tập ngày càng được phát triển. Đặc biệt ở lứa tuổi này, tính chủ động phát triển mạnh mẽ ở tất cả các quá trình nhận thức. Quan sát của HS trở nên có mục đích, có hệ thống và toàn diện hơn, ghi nhớ có chủ định giữ vai trò chủ đạo trong hoạt động trí tuệ, các em sử dụng tốt hơn các phương pháp ghi nhớ, tóm tắt ý chính, so sánh, đối chiếu. Đặc biệt, các em tạo được tâm thế phân hoá trong ghi nhớ, biết phân biệt tài liệu nào cần nhớ từng chữ, cái gì chỉ cần hiểu mà không cần nhớ. Cũng do đặc điểm lứa tuổi, học sinh Trung học phổ thông phát triển mạnh về tư duy hình thức. Các em có khả năng tư duy lý luận, tư duy trừu tượng một cách độc lập sáng tạo trước những đối tượng quen thuộc hoặc chưa quen thuộc. Sự tổng hợp về năng lực tư duy và những đặc điểm tâm lý của HS THPT chính là tiền đề để chúng ta khẳng định việc hình thành năng lực tự học tập, tự nghiên cứu cho HS với việc sử dụng MM trong dạy học các bài tiếng Việt là một việc làm hợp lý có cơ sở khoa học. Về bản đồ tư duy Khái niệm và đặc điểm của bản đồ tư duy Theo Tony Buzan, người đã dành suốt 30 năm để nghiên cứu vấn đề này, Mindmap (Bản đồ tư duy, Sơ đồ tư duy) là một công cụ tổ chức tư duy, một phương tiện ghi chép, là phương pháp truyền tải thông tin theo chiều từ ngoài vào não và ngược lại. Đây là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh, từ khoá để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. MM có thể được coi là một kỹ thuật hình hoạ với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc tương thích với cấu trúc hoạt động và chức năng của bộ não giúp con người khai phá tiềm năng vô tận của bộ não. Hình 1.1. Bộ não người Tương tự như kết cấu của bộ não, ở giữa bản đồ là một ý tưởng hay hình ảnh trung tâm. Ý tưởng hay hình ảnh trung tâm này được phát triển bằng các nhánh tượng trưng cho những ý chính và đều được nối với ý trung tâm. Các nhánh chính lại được phân thành các nhán
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_su_dung_ban_do_tu_duy_trong_day_hoc_ti.docx
Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học tiếng Việt ở trường Trung học phổ thông.pdf