Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy – học ở Tiểu Học
Qua những năm đứng lớp, tôi luôn ý thức việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan (tranh, ảnh, sơ đồ, mô hình, vật mẫu,…) vào các tiết dạy tôi cảm thấy các em rất hứng thú học tập và tiếp thu bài nhanh hơn, đồng thời giáo viên đỡ mất thời gian trong việc giải thích, thuyết trình các hiện tượng hoặc đối tượng mà học sinh cần nghiên cứu. Vì vậy, tiết học trở nên nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với những tiết dạy không có sử dụng đồ dùng dạy học trực quan.
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã xuất hiện nhiều phương tiện dạy học trực quan trong đó phương tiện nghe – nhìn chiếm một vị trí rất quan trọng. Tôi đã tìm hiểu và ứng dụng thực tế, cuối cùng tôi đã chọn được một số phương tiện ứng dụng CNTT vào việc giảng dạy. Cụ thể là sử dụng phần mềm đa phương tiện Microsoft Power Point; Violet; Lecture Maker trong công tác dạy – học.
Vì vậy chúng ta cần phải thấy được những ưu điểm của việc ứng dụng CNTT vào dạy – học để phát huy được những điểm mạnh của nó…….. Đây cũng chính là nền tảng để kích thích sự hứng thú học tập của các em, từ đó các em sẽ chủ động và sáng tạo hơn trong học tập.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy – học ở Tiểu Học

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY – HỌC Ở TIỂU HỌC PHẦN I: PHẦN MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài 1.1 Cơ sở lý luận Công nghệ tin học là một lĩnh vực đột phá có vai trò lớn trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội. Thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo, công nghệ thông tin có tác dụng làm thay đổi mạnh mẽ phương pháp, phương thức dạy – học nhất là khi nền giáo dục của nước ta bước sang thế kỉ 21, thế kỉ của công nghệ thông tin. Để đạt được mục tiêu đó, trong những năm gần đây việc ứng dụng CNTT vào dạy – học đã và đang trở thành một xu thế phát triển mạnh mẽ ở các trường học, cấp học. Qua những năm đứng lớp, tôi luôn ý thức việc sử dụng đồ dùng dạy học trực quan (tranh, ảnh, sơ đồ, mô hình, vật mẫu,) vào các tiết dạy tôi cảm thấy các em rất hứng thú học tập và tiếp thu bài nhanh hơn, đồng thời giáo viên đỡ mất thời gian trong việc giải thích, thuyết trình các hiện tượng hoặc đối tượng mà học sinh cần nghiên cứu. Vì vậy, tiết học trở nên nhẹ nhàng hơn rất nhiều so với những tiết dạy không có sử dụng đồ dùng dạy học trực quan. Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã xuất hiện nhiều phương tiện dạy học trực quan trong đó phương tiện nghe – nhìn chiếm một vị trí rất quan trọng. Tôi đã tìm hiểu và ứng dụng thực tế, cuối cùng tôi đã chọn được một số phương tiện ứng dụng CNTT vào việc giảng dạy. Cụ thể là sử dụng phần mềm đa phương tiện Microsoft Power Point; Violet; Lecture Maker trong công tác dạy – học. Vì vậy chúng ta cần phải thấy được những ưu điểm của việc ứng dụng CNTT vào dạy – học để phát huy được những điểm mạnh của nó.. Đây cũng chính là nền tảng để kích thích sự hứng thú học tập của các em, từ đó các em sẽ chủ động và sáng tạo hơn trong học tập. 1.2. Cơ sở thực tiễn Trong những năm học qua, tôi được nhà trường phân công giảng dạy khối lớp 4, 5. Trong quá trình công tác, giảng dạy tại lớp, tại trường việc ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy bản thân tôi có nhiều thuận lợi lớn song bên cạnh đó cũng gặp một số khó khăn cụ thể là: Thuận lợi: + Được sự quan tâm tạo điều kiện lớn của ngành thông qua việc tập huấn sử dụng các phần mền đa phương tiện. + Nhà trường đã trang bị đầy đủ máy tính có nối mạng vào tận phòng học cho mỗi giáo viên, có máy chiếu lớn và màn hình 32 in dùng chung cho các khối lớp. + Có rất nhiều tư liệu, tài liệu phục vụ cho việc soạn giảng như: hình ảnh, phim, nhạc, thông tin, từ Internet. Phim và các tư liệu từ CD. Đặt biệt nhà trường đã có bộ tranh ảnh cho các khối lớp được chụp từ sách giáo khoa các khối học giúp cho giáo viên tiết kiệm được thời gian tìm kiếm hình ảnh đưa vào bài giảng. + Được sự hỗ trợ, giúp đỡ nhiệt tình của BGH nhà trường và các anh chị đồng nghiệp. Khó khăn: + Để soạn được một bài giảng có chất lượng phải tốn nhiều thời gian và công sức. + Đòi hỏi giáo viên phải sử dụng linh hoạt các phần mền có liên quan để hỗ trợ cho bài soạn. + Giáo viên sẽ bị động khi mất điện và sử lí chưa thuần thục các thao tác. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nghiên cứu đề tài này bản thân tôi đã tìm tòi, nghiên cứu để đưa ra một số kinh nghiệm về việc ứng dụng CNTT trong dạy – học ở tiểu học nhằm nâng cao chất lượng dạy học trên cơ sở xác định được tầm quan trọng của hình thức dạy học mới và khơi gợi sự tích cực, yêu thích học tập của học sinh, sự say sưa trong giảng dạy của giáo viên. Để từ đó học sinh chủ động hơn trong việc chiếm lĩnh tri thức. +Cung cấp kiến thức ban đầu về việc ứng dụng CNTT trong việc đổi mới phương pháp dạy học +Hình thành kĩ năng cơ bản thi thực hành trên máy tính và biết vận dụng phương pháp dạy học mới trong giảng dạy. +Luôn say mê và nghiên cứu CNTT phục vụ cho công việc giảng dạy. +Thực hiện đề tài này nhằm rút ra một số kinh nghiệm qua thực tế giảng dạy của bản thân. +Đồng thời làm một số kinh nghiệm cho đồng nghiệp tham khảo và vận dụng trong quá trình công tác và giảng dạy. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 3.1.Khách thể nghiên cứu: Học sinh tiểu học 3.2. Đối tượng nghiên cứu: Quá trình ứng dụng CNTT trong dạy – học của giáo viên, học sinh ở trường Tiểu học. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU 4.1. Nghiên cứu và hệ thống hóa cơ sở lý luận và thực tiễn về quá trình ứng dụng CNTT trong dạy – học ở trường Tiểu học hiện nay. 4.2.Tìm hiểu những khó khăn của giáo viên khi soạn giảng CNTT. 4.3.Tìm hiểu những yêu cầu cơ bản để soạn được một bài giảng ứng dụng CNTT. 4.4. Xây dựng quy trình soạn giảng một bài dạy có ứng dụng CNTT. 4.5. Khảo sát phân tích và đánh giá thực trạng về quá trình ứng dụng CNTT trong dạy – học ở trường Tiểu học hiện nay. 4.6. Đề xuất một số giải pháp và bài học kinh nghiệm nâng cao chất lượng ứng dụng CNTT trong dạy – học ở trường Tiểu học hiện nay. PHẠM VI NGHIÊN CỨU Trong phạm vi của sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân tôi xin trình bày “Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy – học ở Tiểu Học” với những nội dung như: thay đổi nhận thức và tiếp thu của học sinh về việc ứng dụng CNTT trong dạy – học. Sử dụng phần mềm đa phương tiện Microsoft Power Point; Violet; Lecture Maker trong công tác dạy – học. Hiệu quả của tiết dạy có ứng dụng CNTT. PHẦN II: PHẦN NỘI DUNG 1. Thực trạng: 1.1.Những trở ngại khi sử dụng bài giảng có ứng dụng CNTT: Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng bài giảng có ứng dụng CNTT vì nghĩ rằng sẽ tốn thời gian chuẩn bị. Việc thực hiện một bài giảng một cách công phu bằng các dẫn chứng sống động bằng các slide trong các giờ học là một điều mà các giáo vên không muốn nghĩ đến. Đẻ có một bài giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị, đó là điều mà các giáo viên thường hay tránh. Khảo sát từ phía học sinh cho thấy, nếu sử dụng phương pháp dạy học truyền thống với phấn trắng bảng đen thì hiệu quả mang lại chỉ có 50%.Trong khi đó, hiệu quả của phương pháp nghe – nhìn bằng các slide, video clip lên đến 90%. Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi giáo viên phải đổi mới trong tư duy và suy nghĩ. Thực ra, muốn kích chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Vì thế đòi hỏi giáo viên phải biết sử dụng thành thạo các phần mềm đa phương tiện như: power point, violet, lecture makerGiáo viên cần phải có niềm đam mê thực sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự sang tạo, nhạy bén và khả năng săn tìm tài liệu từ nhiều nguồn. Hơn nữa, trong quá trình thiết kế, để có một bài giảng tốt, từng cá nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình ảnh minh họa, âm thanh sôi động, cắt ghép hình ảnh, âm thanhĐây cũng chính là một trong những nguyên nhân mà một số giáo viên thường đưa ra để tránh né việc ứng dụng CNTT để dạy – học. Qua thăm dò, đánh giá học sinh thì các em làm phần trắc nghiệm trả lời rất tốt nhưng cho làm bài toán có tính suy luận thì gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì những khó khăn trên mà các giáo viên chỉ ứng dụng CNTT khi thực sự cần thiết như: dạy dự giờ thao giảng, chuyên đề, thi giáo viên dạy giỏiTình trạng này cũng phổ biến trong các trường tiểu học hiện nay. Mục đích sử dụng máy tính chỉ áp dụng cho những trường hợp này. 1.2.Thực trạng ứng dụng CNTT trong trường tiểu học hiện nay: Mặc dù trường được trang bị phòng máy tính, tuy nhiên chỉ nhằm mục đích cho học sinh thực hành môn tin học hoặc ứng dụng trong công tác lưu trữ, quản lí hồ sơ nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta đã bỏ phí rất nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn mà CNTT mà một trong những ứng dụng đó là sử dụng các phần mếm hỗ trợ giảng dạy cho các phân môn như Toán, Tiếng Việt mà đặc biệt là Tự Nhiên Xã Hội lớp 1,2,3; Khoa – Sử -Địa lớp 4,5 Chính vì vậy nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là rất lớn. Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đay là vấn đề cấp thiết cần thực hiện ngay. Các sinh viên sư phạm cũng đề coi khả năng thiết kế bài giảng bằng máy tính như một tiêu chuẩn nâng cao giá trị của mình khi xin việc vào các trường tốt. Các lãnh đạo nhà trường cũng như các cơ quan giáo dục đều khuyến khích và coi khả năng sử dụng giáo án điện tử, bài giảng điện tử là ưu điểm của giáo viên. Do đó, các lớp tập huấn Tin học, sử dụng Power Point, Violetthường được các giáo viên tham gia rất đông. Trong các cuộc thi giáo viên dạy giỏi, gần như 100% là các bài giảng là dung phần mềm. Ở các tỉnh, thành phố lớn,, đa số các trường học đều trang bị máy chiếu đẻ phục vụ việc giảng dạy bằng máy tính. Trên thực tế thì các phần mềm giáo dục của Việt Nam đã xuất hiện rất nhiều, phong phú về nội dung và hình thức như: các website đào tạo trực tuyến, các phần mềm multimedia dạy họcTrên thị trường có thể dễ dàng lựa chọn và mua phần mềm dạy học cho bất kì lớp nào.Tuy nhiên, các “sách giáo khoa điện tử” tỏ ra không nổi trội hơn sách giáo khoa truyền thống.Các phần mề dạy học cho học sinh dù đã có rất nhiều cố gắng về mặt hình thức và nội dung, tuy nhiên sự giao tiếp giữa máy tính với người chắc chắn sẽ không bằng sự giao tiếp giữa thầy với trò. 2.Các giải pháp: 2.1. Hướng dẫn một số quy trình và nguyên tắc khi thực hiện bài giảng ứng dụng Công nghệ thông tin Khi chuyển từ bài giảng truyền thống ( thầy giảng- đọc trò ghi hay thầy vừa giảng vừa ghi – trò chép) sang việc giảng bài bằng GAĐT (ƯDCNTT trong dạy học), hầu hết các giáo viên ở trường. Nghĩa là nghĩ và sẻ trình bày những gì mình nói và viết tất cả các nội dung vào trong Slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì như thế HS sẻ cho rằng giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không mở rộng các kiến thức ngoài. Chúng ta cần nhớ một điều: Slide (một trang màn hình của một phần mềm nào đó) là nơi là chỉ chứa tên bài học, các đề mục và các cụm từ chốt phục vụ cho bài giảng.Tùy theo từng môn học, chúnh ta có thể bổ sung các công thức, hình ảnh minh họa một cách hợp lý. Đây là bước mà GV cần vận dụng khả năng, kiến thức về tin học của mình để xây dựng bài giảng. Nếu Slide nào cần hình ảnh minh họa, giáo viên nên tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Hay Slide kia đang trình bày một kết quả của thí nghiệm vào để tăng tính thực tế. Công đoạn đưa nội dung vào giáo viên cũng nên luu ý về số lượng chữ, màu sắt, kích thước trên một Slide. Giáo viên nên tóm tắt vấn đề mình muồn trình bày một cách rỏ ràng, dể hiểu. Nhìn vào Slide GV có nhiệm vụ giải thích kĩ càng và mở rộng nó ra chứ không phải đọc các dòng chữ trên Slide. Nếu chưa quen với cách giảng dạy này, GV cảm thấy khó khăn trong việc xác định xem slide tiếp theo sẻ trình bày về vấn đề gì. Giáo viên có thể in ra một bảng để vừa giảng vừa nhìn vào để xác định vấn đề tiếp theo. Sử dụng GAĐT không có nghĩa là giáo án truyền thống bị lảng quên. Chúng ta hãy nhìn lại xem trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày những gì, phải chăng là tất cả nội dung bài giảng? Vậy thì đối với GAĐT chỉ gồm một số các Slide chỉ chứa văn bản, hình ảnh,.thì làm thế nào mà GV có thể quan sát hết các vấn đề cần được giảng? Những nội dung cảm thấy thích thì tập trung nhiều thời gian vào và giảm thời gian cho các nội dung còn lại? Liệu nếu một GV mới có thể nhớ hết nội dung đã chuẩn bị trước buổi dạy hay không? Chỉ cần chúng ta xây dựng kế hoạch giảng dạy thì vấn đề trên sẻ được giải quyết ngay. Đề cương này sẽ ghi rõ tên bài dạy, các mục kiến thức cần trình bày, vấn đề nào cần trình bày trước, vấn đề nào cần trình bày sau ? Vấn đề nào trọng tâm và nhấn mạnh? Chúng ta phải chuẩn bị kĩ lưỡng như vậy là vì nếu tiết dạy đó GV chưa nói hết các nội dung trong các Slide hay đã trình bày hết nội dung nhưng thời gian còn thừa. Tóm lai, chúng ta phải kết hợp đề cương này cùng với việc trình bày trên các slide một các hợp lý thì lúc đó GV ắt hẳn không còn băn khoăn gì về cách dạy mới mẻ này. 2.2.Hướng dẫn khai thác và xử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài giảng có ứng dụng Công nghệ thông tin Từ nhiều năm nay, ở các trường tiểu học cũng đã tương đối phổ biến mô hình giảng dạy sử dụng bài giảng điện tử cùng với các trang thiết bị khác như máy tính, máy chiếu (projector), Bài giảng điện tử và các trang thiết bị này có thể coi là những công cụ dạy học đa năng vì nó có thể thay thế cho hầu hết các công cụ dạy học khác từ truyền thống (tranh vẽ, bản đồ, mô hình,) đến hiện đại (cassette, ti vi,). Hơn nữa, nếu các bài giảng điện tử được đầu tư xây dựng cẩn thận thì sẽ đem lại hiệu quả hơn hẳn. Chẳng hạn khi mô phỏng một trận đánh lịch sử, trên bản đồ giấy chỉ có thể diễn tả được bằng các mũi tên chỉ hướng tấn công, còn trên phần mềm có thể diễn tả được hình ảnh của các đoàn quân di chuyển, nên tạo được sự hấp dẫn và học sinh có thể tiếp thu bài giảng dễ dàng hơn. Khác với các phần mềm giáo dục khác, bài giảng điện tử không phải là phần mềm dạy học, nó chỉ trợ giúp cho việc giảng dạy của giáo viên (đối tượng sử dụng là giáo viên, không phải là học sinh). Chính vì vậy, việc truyền đạt kiến thức vẫn dựa trên giao tiếp thầy – trò, chứ không phải giao tiếp máy – người. Mặt khác, vì giáo viên là người trực tiếp điều hành việc sử dụng phần mềm nên có thể khai thác tối đa được những kiến thức cần chuyển tải trong phần mềm, tuỳ thuộc vào trình độ của học sinh và phương pháp giảng dạy của giáo viên. Rõ ràng việc sử dụng các bài giảng điện tử sẽ tăng hiệu quả đáng kể đối với các tiết dạy của giáo viên. Có thể nói đó là sự kết hợp những ưu điểm của phương pháp dạy học truyền thống và của các công nghệ hiện đại. Tuy nhiên, nếu đầu tư xây dựng các bài giảng đóng gói đơn lẻ như sau thì dễ thấy những mặt hạn chế như sau: – Tính cứng nhắc trong nội dung bài giảng: Các bài giảng điện tử xây dựng theo mô hình trên thường không thể ứng dụng trên quy mô rộng được. Một bài giảng do giáo viên này thiết kế khó có thể áp dụng cho một giáo viên khác vì mỗi người sẽ có một phương pháp giảng dạy khác nhau. Thậm chí với cùng một giáo viên nhưng với những trình độ học sinh khác nhau thì cũng phải có những bài giảng khác nhau. – Giá thành cao: Để có được những sản phẩm có chất lượng phù hợp với yêu cầu của các giáo viên thì đòi hỏi phải có một đội ngũ kỹ thuật viên có đủ chuyên môn và kinh nghiệm làm việc, phải đầu tư không ít thời gian cho các việc thiết kế, sản xuất và bảo trì phần mềm. Do vậy, nếu tính theo giá thị trường thì giáo viên khó có thể đáp ứng được, thậm chí đối với một trường học thì giá thành cũng là một vấn đề lớn. – Sự áp đặt máy móc: Hiện nay, nhiều cơ quan trong ngành Giáo dục hay các Sở Giáo dục địa phương cũng thường đầu tư xây dựng hoặc mua phần mềm hỗ trợ giảng dạy, sau đó đưa về các trường để sử dụng. Tuy nhiên, giáo viên phải tâm đắc với phần mềm nào thì quá trình giảng dạy mới đạt hiệu quả. Mọi sự áp đặt từ cấp trên đưa xuống sẽ trở nên vô nghĩa. Phương pháp giảng dạy tốt nhất là do giáo viên trực tiếp đứng lớp quyết định, không phải một người khác sáng tác ra để áp đặt cho họ. Thậm chí việc áp đặt còn có thể gây ra hiệu quả xấu khi tạo cho người giáo viên tính lười soạn bài, không phát huy tính sáng tạo trong giảng dạy và cũng không nắm rõ được những ý đồ sư phạm trong một bài giảng. Chỉ có một cách duy nhất là phải hướng dẫn, tập huấn các giáo viên để có thể tự xây dựng các bài
File đính kèm:
sang_kien_kinh_nghiem_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_day.docx